Năm 1919, một bể chứa 2,3 triệu gallon (tương đương 8706 m3
hay 8,7 tỷ lít) mật rỉ đường đột ngột vỡ tung, gây nên thảm họa chết người. Các nhà
khoa học giờ đã hiểu tại sao cơn sóng thần si-rô này lại chết chóc đến như vậy.
Thoạt nghe thì như chuyện trẻ con nhưng trận Đại hồng thủy mật
rỉ đường là một trong những sự kiện thàm khốc và gây ra thiệt hại nặng nề nhất
trong lịch sử thành phố Boston.
Vào ngày 15 tháng 1 năm 1919, nhiều cư dân tại thành phố
nghe thấy một tiếng nổ vang rền. Một bể chứa si-rô quy mô công nghiệp bị vỡ
tung, phóng ra một con sóng thần dịch mật bao trùm quận North End gần bến cảng
của thành phố.
Con sóng cao 5 mét di chuyển ào ạt với tốc độ 56km/h nhấn
chìm nhiều nhà cửa và phương tiện, cướp đi mạng sống của 21 người và gây thương
tích cho 150 người khác.
Cho đến nay các nhà khoa học mới tổng hợp được các bằng chứng,
cho phép phân tích và chứng minh sự nguy hiểm của mật rỉ đường thông qua tính
chất vật lý của chúng.
Tại hội nghị thường
niên của Hiệp hội Thành tựu thúc đẩy Khoa học Hoa Kỳ diễn ra vào trung tuần tháng 2 năm 2017 tại
Boston, khám phá này được công bố, trong đó nhấn mạnh điểm mấu chốt đó là: độ
nhầy của mật rỉ đường sẽ tăng lên rất nhanh khi nhiệt độ giảm xuống. Điều này
có nghĩa là ai đó sẽ càng khó thoát ra khỏi đám mật rỉ đường đó hơn khi trời
càng tối!
Phát biểu tại hội nghị, Nicole Sharp, kỹ sư hàng không vũ trụ
đồng thời là tác giả của blog Fuck Yeah Fluid Dynamics, cho biết: “Mặt trời bắt
đầu lặn khi các nhân viên cứu hộ vẫn đang tích cực tìm kiếm và giúp đỡ các nạn
nhân. Song mật rỉ đường càng lúc càng cô đặc lại khiến cho các cư dân mắc kẹt
trong đống đổ nát càng trở nên khó khăn trong việc ngoi lên để thở”.
Vũng si-rô loãng ra một cách chậm chạp, để lại các nạn nhân
như những con muỗi vặt nằm trong đám hổ phách nâu màu cánh gián, nằm chờ chết
không thể cô độc và lạnh lẽo hơn. Một người đàn ông bị mắc kẹt trong gạch đá của
một trạm cứu hỏa vừa đổ sập, thậm chí đã buông xuôi khi không còn sức để gạt dịch mật khỏi
mặt nữa.
“Thật khủng khiếp khi trời ngày càng lạnh, họ càng cạn dần sức
lực và hi vọng di chuyển khỏi khối mật rỉ đường càng trở nên mong manh”, ông
Sharp nói thêm.
Ngay trước khi thảm hỏa xảy ra, Boston đón một đợt rét bất
thường và nhiệt độ lúc đó là -16 độ C. Bể thép chứa mật tại cảng, vốn chỉ có độ
dày bằng một nửa so với thiết kế kỹ thuật, đã xuất hiện những dấu hiệu cong
méo. Hai ngày trước thảm họa, bể chứa đầy khoảng 70%, thì một đợt vận chuyển mới
mang theo mật rỉ đường nóng từ Ca-ri-bê cập cảng và đổ đầy bể chứa.
“Một chi tiết được miêu tả mỗi khi có một lượng mật mới xuống
tàu đó là bể chứa sẽ phát ra những âm thanh kéo dài u ám. Mọi người cảm thấy lo
lắng bởi những âm thanh khi đổ mật vào bể chứa”.
Tình hình tiếp tục xấu đi khi bể chứa bị dò mật, tuy nhiên
công ty chủ quản lại lấp liếm bằng cách sơn bể chứa thành màu nâu của mật!
Sharp và một đội ngũ chuyên gia của đại học Harvard đã thực
hiện nhiều thí nghiệm để mô phỏng lại phản ứng của si-rô ngô (đại diện cho mật
rỉ đường) ở một tủ lạnh cỡ lớn trong điều kiện nhiệt độ biến thiên, nhằm kiểm
chứng lại các báo cáo thời đó về thảm họa.
Ông Sharp phân tích: “Các ghi chép lịch sử ước tính đợt sóng
đầu tiên dịch chuyển với tốc độ 56 km/h. Khi xây dựng mô hình thí nghiệm … và
cài đặt các tham số vật lý của mật rỉ đường, chúng tôi thu được những con số tương
đương vậy. Loài ngựa không thể chạy thoát khỏi nó. Ngựa, người, tất cả mọi thứ
đều bị con sóng đó cuốn đi. ”
Đợt sóng mật khổng lồ tuân theo các định luật vật lý của một
hiện tượng được gọi là “dòng trọng lực” (gravity current), ở đó một luồng chất
lỏng đặc hầu như chỉ lan ra theo phương ngang thành một dòng loãng hơn. “Dòng
nham thạch như vậy, tuyết lở cũng như vậy, và những con gió đông lùa dưới khe cửa
nhà bạn cũng chính là như vậy”.
Nhóm nghiên cứu sử dụng một mô hình địa vật lý được phát triển
bởi giáo sư Herbert Huppert của đại học Cambridge, người chuyên nghiên cứ về
các dòng trọng lực đang hiện hữu như các luồng nham thạch và các tảng băng trôi
ở Nam cực.
Mô hình thí nghiệm giả thuyết rằng quá trình mật rỉ đường diễn
ra theo ba giai đoạn chính.
“Dòng mật đầu tiên di chuyển theo chế độ tụt nhanh”, Huppert
nói, mô tả cách dịch mật tròng trành ào ra khỏi bể chứa theo khối khổng lồ.
(“The current first goes through a so-called slumping regime,” said Huppert, outlining how the molasses would have lurched out of the tank in a giant looming mass.)
“Tiếp đến là chế độ mà quán tính đóng vai trò chính”. Ở giai
đoạn này, thể tích của dòng trào ra là nhân tố quan trọng nhất quyết định ngọn
đầu sóng quét nhanh đến mức nào.
(“Then there’s a regime where inertia plays a major role,” he said. In this stage, the volume of fluid released is the most important factor determining how rapidly the front of the wave sweeps forward.)
(“Then there’s a regime where inertia plays a major role,” he said. In this stage, the volume of fluid released is the most important factor determining how rapidly the front of the wave sweeps forward.)
“Chế độ nhầy diễn ra sau đó,” ông kết luận. Đây là giai đoạn
quyết định dòng mật khổng lồ lan ra từ từ hay nhanh chóng – và từ đó giải thích
hậu quả kinh hoàng của thảm họa Boston.
(“Then the viscous regime generally follows,” he concluded. This is what dictates how slowly the fluid spreads out – and explains the grim consequences of the Boston disaster.)
(“Then the viscous regime generally follows,” he concluded. This is what dictates how slowly the fluid spreads out – and explains the grim consequences of the Boston disaster.)
“Cứu người khác là một chuyện, còn bản thân có thể sống sót
cho đến khi được cứu, lại là một chuyện hoàn toàn khác,” ông Sharp nhấn mạnh.
(Nguồn: The Guardian - Study reveals why so many met a sticky end in Boston's Great Molasses Flood.)
>> Các câu tiếng Anh là câu trong văn bản gốc, gây ra khó khăn cho tôi nhất để dịch thoát ý. Cụ thể là các từ cụm danh từ của regime (thể chế, chế độ, chính thể). Any ideas?